Lập Trình Ngôn Ngữ Tư Duy

hình thành những kinh nghiệm cá nhân của mỗi chúng ta: thần kinh học, ngôn ngữ học, và các mô thức được lập trình sẵn.

Thứ Năm, 28 tháng 11, 2013

TALMUD - Tinh hoa trí tuệ Do Thái

  1. Trí tuệ và tiền bạc là sự kết hợp hoàn mỹ nhất

    "Trí tuệ còn hơn cả sức mạnh cơ bắp, nhưng trí tuệ của người nghèo thì bị coi thường, anh ta nói cũng chẳng ai nghe" 

    Người Do Thái coi tri thức là một loại của cải, dùng trí tuệ để tạo ra vật chất. Nguyên tắc giáo dục thống nhất giữa trí tuệ và tiền bạc là nguyên nhân quan trọng khiến dân tộc Do Thái trở thành một dân tộc ưu tú trên thế giới.
  2. Dựa vào ngoại lực để giành thắng lợi
  3. Nhằm vào túi tiền của phụ nữ
  4. Tư duy đa chiều
  5. Giao dịch công bằng
  6. Bí quyết đàm phán
  7. Vững bước giành chiến thắng
  8. Biết tiêu tiền và tính tiền
  9. Nắm bắt thông tin sẽ giành chiến thắng
  10. Không nên chìm đắm trong tiền bạc
  11. Quy luật 22 : 78
  12. Không thực hiện lời ít bán nhiều

    "Hàng hóa quý, đắt là sản phẩm dành cho những người giàu có. Nhằm vào hầu bao của người giàu có là một bí quyết kinh doanh thành công"

    78% của cải trên thế giới nằm trong tay 22% số người giàu có, điều này cho thấy kiếm tiền từ những người giàu dễ hơn kiếm tiền của người nghèo. Trong khi gần như mọi thương nhân đều cho rằng "lời ít bán nhiều" là khuôn vàng thước ngọc trên thương trường, thì người Do Thái lại không cho là vậy, mà họ đề xuất phép kinh doanh lời nhiều bán vừa và kiếm được rất nhiều tiền.
  13. Kiếm tiền một cách đàng hoàng
  14. Tuân thủ giao kèo
  15. Có tiền không kiếm là phạm tội
  16. Hai bên cùng có lợi
  17. Tư duy linh hoạt
  18. Lách luật
  19. Dám gánh chịu rủi ro
  20. Giàu có nhờ kiếm tiền chứ không phải để dành
  21. Quý trọng thời gian
  22. Tri thức và trí tuệ
  23. Không nên cả tin
  24. Không mù quáng nghe theo quyền uy
  25. Vượt qua chính mình
  26. Hưởng thụ cuộc sống ở mức độ vừa phải
  27. Yêu thương người khác
  28. Đừng ép người khác làm điều mà mình không muốn
  29. Nói chuyện phải đúng mực
  30. Không làm nô lệ cho dục vọng
  31. Coi trọng giáo dục
  32. Thái độ sống lạc quan
  33. Học là việc cả đời
  34. Tinh thần tiến thủ
  35. Sức khỏe hàng đầu
  36. Coi trọng sự tiết kiệm
  37. Tự đại là ngu muội, khiêm nhường là đức tính tốt
  38. Nghệ thuật giáo dục con cái

    "Nhà có trẻ đi học mà không dạy dỗ thì sẽ là một gia đình nghèo"

    Rất nhiều người quan niệm rằng, trẻ em trưởng thành tốt là vì có thiên bẩm tốt; trẻ không thành công là do nó vốn sinh ra đã kém cỏi, chứ không phải do cha mẹ không hoàn thành thiên chức dạy dỗ con. Còn người Do Thái thì không cho là như vậy, họ thừa nhận rằng một đứa trẻ bình thường nếu được giáo dục tốt thì cũng có thể trở thành một người kiệt xuất.

    Tiềm năng của thiên tài được phát huy nhờ sự giáo dục
    Tập cho trẻ khả năng chịu khổ
    Cư xử với trẻ như thế nào là khôn ngoan
    Bồi dưỡng cho trẻ ý thức về tiền bạc
    Nghệ thuật giáo dục đặc biệt

    Người Do Thái cho rằng: một học sinh phải cần thầy giảng đi giảng lại mấy lần mới hiểu thì không phải là nó kém hơn học sinh khác, nên không cần phải xấu hổ trước những bạn học chỉ cần nghe.

    Về phương pháp học tập của học sinh, người Do Thái tổng kết rất nhiều điều để học sinh theo đó thực hiện:

    Thứ nhất, học đi học lại. Một người lặp đi lặp lại tri thức 1000 lần thì một người chỉ lặp đi lặp lại tri thức 100 lần không bao giờ bắt kịp được.
    Thứ hai, chăm chỉ đọc. Viết xong thì đừng cho rằng mọi việc đã xong, cần đọc lại, vì không ai tránh được sơ sót. Dù một bức thư ngắn cũng không được vì bận rộn mà không đọc lại một lần nữa.
    Thứ ba, khi viết văn phải sử dụng ngôn ngữ chính xác và dùng từ chuẩn xác. Bởi vì sai sót khi viết sẽ giảm uy tín của người viết, hơn nữa người ta sẽ ghi nhớ những sai sót này.

Thứ Ba, 26 tháng 11, 2013

Lập trình ngôn ngữ tư duy - NLP (Neuro-Linguistic Programming)

NLP là viết tắt của Neuro-Linguistic Programming (Lập Trình Ngôn Ngữ Tư Duy). Nó chứa đựng ba thành tố có ảnh hưởng lớn nhất đến việc hình thành những kinh nghiệm cá nhân của mỗi chúng ta: thần kinh học, ngôn ngữ học, và các mô thức được lập trình sẵn.

Một trong những ý tưởng độc đáo nhất của NLP là: Nếu một người nào đó làm được việc gì, thì ta sẽ có khả năng tìm hiểu cách thức họ làm như thế nào và lặp lại nó. Nguyên Lý Mô Phỏng (Principle of Modelling) của NLP là một trong những cách tiếp cận độc nhất vô nhị cho việc phát hiện và bắt chước những kỹ năng tiềm thức của những người kiệt xuất (có năng khiếu bẩm sinh) để dạy lại cho những người khác những kỹ năng mà bình thường rất khó có thể học được.

Giáo sư Gerald Edelman, người đoạt được giải Nobel, đã trải qua 30 năm nghiên cứu các chức năng hoạt động của bộ não. Ông kết luận rằng hơn 10 tỉ tế bào thần kinh trong chúng ta đã sắp xếp thành từng nhóm và hình thành những bản đồ phản ánh lại kinh nghiệm của chúng ta. Những bản đồ này cho phép chúng ta ý thức về thế giới cũng như về bản thân. Những liên kết giữa các tế bào càng hoạt động thường xuyên sẽ càng phát triển mạnh; những phần còn lại sẽ hao mòn dần.

Nỗi ám ảnh là một ví dụ hay về hoạt động của bộ não. Một trường hợp cá biệt (sợ độ cao, nhện…) sản xuất ra một phản ứng vật chất mạnh mẽ (đổ mồ hôi tay, thở gấp, hoảng sợ, …) Bộ não nhận biết điều đó một cách nhanh chóng và ngay sau đó, mỗi khi người đó gặp kích thích tương tự, cơ thể của họ biết phải phản ứng tương đương. Một điều ngạc nhiên là những người mắc chứng sợ hãi không bao giờ quên phản ứng này. Đây là chiến lược học hỏi một lần hoàn hảo.

Một mặt những phản ứng theo thói quen tất yếu này dẫn đến bất lợi cho chúng ta là bị ám ảnh, thì mặt khác nó cũng có lợi là chúng ta làm nhiều việc mà không cần suy nghĩ như buột dây giày, lái xe…

Vì vậy NLP nghiên cứu tỉ mỉ về cách mỗi cá nhân hành xử theo thói quen như thế nào. Với NLP chúng ta có thể nhận thấy những khuôn mẫu nào đáp ứng và phục vụ chúng ta. Sau đó chúng ta có thể thêm vào những khuôn mẫu mới cho hành vi cư xử của mình và đạt hiệu quả hơn trong những trường hợp khi mà trước kia chúng ta đã ứng xử không hiệu quả. Nếu chúng ta hiểu chính bản thân mình, chúng ta có thể lựa chọn về việc chúng ta muốn trở thành người như thế nào trong tương lai.


Kỹ thuật NLP


Chúng ta giao tiếp với thế giới bên ngoài thông qua 5 giác quan: thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác, và vị giác. Chúng ta tiếp nhận những tác nhân kích thích từ bên ngoài, và tái tạo lại chúng bên trong não bộ dưới một hình thức khác. Việc này hình thành bên trong não bộ chúng ta một thế giới thu nhỏ và chủ quan của riêng chúng ta.

Việc tổng hợp tất cả những gì ta thu nhận từ bên ngoài vào não bộ tạo nên những mô thức hành vi và phản ứng trong các hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống, việc này còn được gọi là “lập trình”. Những mô thức (hay gọi một cách đơn giản là thói quen) này sẽ lặp đi lặp lại nếu không có cản trở hay thay đổi gì. Nó giống như máy ghi âm tua lại cùng một nội dung nếu như nó không bao giờ được ghi âm nội dung khác chồng lên. Vấn đề là ở chỗ, những mô thức lặp đi lặp lại này có những cái rất hữu ích nhưng có những cái thì hoàn toàn không (hoặc thậm chí có hại).

Những người sáng lập ra NLP đã nhận ra rằng, mọi người không phản ứng trực tiếp với thế giới chung quanh họ. Trước tiên, họ dùng những gì thu nhận được từ thế giới bên ngoài trong quá trình sống và lớn lên của bản thân để “lập trình” cho bộ não của mình, rồi cứ thế mà hành động và phản ứng (một cách gần như tự động) theo các chương trình đã được cài sẵn đó.

NLP có một số nguyên lý rất hay, hai trong số chúng là:

  1.     “Nếu bạn tiếp tục làm mọi thứ theo cách bạn luôn làm, thì bạn sẽ mãi chỉ đạt những gì bạn đã có!”
  2.     “Nếu những gì bạn đang làm không hiệu quả, hãy làm điều gì khác!”

Các nhà sáng lập và nghiên cứu NLP tin rằng: nếu con người có thể sử dụng một cách hiệu quả những nguyên lý và kỹ thuật trong NLP, họ có thể đạt được khả năng giao tiếp đầy nghệ thuật, có được một cuộc sống hạnh phúc, giàu có và mãn nguyện hơn. Điều này đã được chứng minh trong cuộc sống qua rất nhiều câu chuyện thành công trong nhiều lĩnh vực.

Hiện nay, nhiều người cho rằng NLP là một trong những cách tiếp cận tốt nhất để đạt được đến nghệ thuật trong giao tiếp, trong phát triển bản thân và trong việc vươn đến những thành công vượt trội.

Ứng dụng NLP


Thông qua việc am hiểu NLP, bạn sẽ:

  •     Học được cách điểu khiển trạng thái cảm xúc của bản thân
  •     Phát triển được kỹ năng thuyết phục trong giao tiếp
  •     Vượt qua được những trở ngại trong công việc và cuộc sống
  •     Giúp được những người xung quanh mình thành công
  •     Và làm được nhiều điều thú vị khác trong cuộc sống

NLP (Lập Trình Ngôn Ngữ Tư Duy) đã được ứng dụng rộng rãi với kết quả vô cùng khả quan trong rất nhiều lĩnh vực:

  •     Kinh doanh
  •     Huấn luyện
  •     Bán hàng
  •     Lãnh đạo
  •     Tâm lý học
  •     Thể thao
  •     Y tế
  •     Thương thuyết
  •     Giáo dục
  •     Và nhiều lĩnh vực khác…

Ngày nay, hầu hết những quyển sách về phát triển bản thân đều chứa đựng một vài kỹ thuật NLP, và nó đã được kết hợp ít nhiều vào hầu hết những khóa đào tạo kỹ năng sống và kỹ năng mềm. Tuy nhiên, không phải khóa học nào cũng vận dụng NLP một cách bài bản.

NLP được sử dụng trong giáo dục ở nhiều mảng khác nhau. Ví dụ: các giáo viên có thể tìm hiểu sự khác biệt giữa những đứa trẻ phân loại và lưu trữ thông tin theo thị giác (visual), thính giác (auditory) hay cảm giác (kinesthetic) – thường được gọi là phương pháp VAK . Có được thông tin này có thể giúp giáo viên điều chỉnh ngôn ngữ của họ để những gì họ dạy sẽ có thể được nhiều học trò lĩnh hội một cách thấu đáo và trọn vẹn nhất.

Các bác sĩ và luật sư đang tận dụng những kỹ thuật NLP tương tự để thu thập thông tin chất lượng từ bệnh nhân và khách hàng. NLP cũng được sử dụng để nghiên cứu sức ảnh hưởng của hệ thống niềm tin đối với bệnh tật. Bước đầu nhận thấy cách các bác sĩ trao thông tin cho bệnh nhân như thế nào có thể là một công cụ hữu ích cho việc phục hồi (hoặc ngược lại). Không có lĩnh vực nào như lĩnh vực về sức khỏe mà câu châm ngôn “Nếu bạn tin vào điều gì thì nhiều khả năng điều đó sẽ diễn ra theo cách bạn tin” lại đúng đến thế.

Đặc biệt, NLP được dùng rất nhiều trong việc phát triển bản thân. Nó tập trung vào bạn muốn gì, bạn muốn trở thành người như thế nào, và làm thế nào để tìm thấy động lực bên trong để giúp bạn thay đổi. Thay vì đi theo các tâm lý truyền thống thường có khuynh hướng tập trung vào vấn đề và nguyên nhân của vấn đề, NLP tập trung vào giải pháp nhiều hơn.

NLP được sử dụng trong thể thao nhằm bảo đảm sự lặp lại của phong độ đỉnh cao cho các vận động viên.

Trong lĩnh vực kinh doanh cũng như công nghiệp, NLP đã và đang được sử dụng để tăng cường hiệu quả bán hàng, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng thuyết trình, thúc đẩy, quản lý áp lực, và hầu hết các lĩnh vực mà bạn có thể nghĩ đến. Các thành viên trong cộng đồng doanh nghiệp được huấn luyện về NLP cũng đang được hướng dẫn vượt qua kế hoạch để đạt được thành công mà họ tự đặt ra, cũng như đóng góp vào những phương pháp để vượt trội đã được chứng minh.



Thứ Bảy, 23 tháng 11, 2013

Dâu Tây dạy con, mẹ chồng đại khai nhãn giới

Con trai du học, sau khi tốt nghiệp rồi định cư tại Mỹ. Và đã kiếm cho tôi con dâu người Tây tên Susan. Hiện giờ, cháu trai Peter đã 3 tuổi. Mùa hè năm nay, con trai đăng ký visa thăm người thân. Thời gian 3 tháng lưu lại Mỹ, con dâu Tây Susan có cách giáo dục con cái làm tôi đây, người mẹ chồng phải đại khai nhãn giới.

Phần 1: Không ăn thì cứ nhịn đói

Mỗi buổi sáng, sau khi Peter thức dậy, Susan để phần ăn sang lên bàn và bận rộn  làmviệc khác. Peter sẽ tự mình leo lên chiếc ghế, uống sữa, ăn bánh sandwich, sau khi ăn no, nó sẽ tự về phòng của mình, tự tìm quần áo trên tủ, rồi tự lấy giày, tự mình mặc lên. Bất kể chỉ mới 3 tuổi thôi, vẫn chưa phân biệt rõ ràng mặt trái hay mặt phải của bít tất, giày trái hay giày phải.

Có một lần, Peter lại mặc ngược chiếc quần lên người, tôi vội vàng chạy đến muốn thay lại cho cháu, nhưng đã bị Susan cản lại. Nó nói, nếu cảm thấy không thoải mái tự cháu sẽ cởi ra, và mặc lại; nếu nó không cảm thấy không có gì là không thoải mái, vậy thì tùy. Và nguyên ngày đó, Peter mặc cái quần ngược đó chạy tới chạy lui, Susan như không thấy gì hết.

Một lần nữa, Peter ra ngoài chơi với cháu nhà hàng xóm, chưa được bao lâu thì nó chạy thở hổn hển về đến nhà, nói với Susan: “Mẹ ơi, Lusi nói cái quần của con mặc ngược rồi, đúng không? Lusi là con nhà hàng xóm, năm nay 5 tuổi. Susan mỉm cười nói: “Đúng vậy, con có muốn mặc lại không?” Peter gật gật đầu, tự mình cởi quần ra, xem tỉ mỉ rồi, bắt đầu mặc lại. Từ lần đó về sau, Peter không bao giờ mặc ngược quần nữa.

Tôi đã không kiềm được mà nhớ lại, cháu gái ngoại của tôi lúc 5 - 6 tuổi chưa biết dùng đũa, lúc học tiểu học còn chưa biết cột dây giày, và bây giờ đang theo trung học dạng ký túc như nó, mỗi cuối tuần là đem một đống quần áo dơ về nhà.

Có một ngày buổi trưa, Peter giận dỗi, không chịu ăn cơm. Susan la rầy mấy câu, Peter giận hờn đẩy khay cơm xuống đất, thức ăn trên khay rớt đầy trên đất. Susan nhìn Peter, giọng nói nghiêm khắc: “Xem ra con đúng thật không muốn ăn! Nhớ lấy, từ giờ đến sáng mai, con không được ăn gì hết.” Peter gật gật đầu, kiên quyết trả lời: “Yes!” Và trong lòng tôi chợt cười thầm, hai mẹ con này cứng đầu như nhau!

Buổi chiều, Susan bàn bạc với tôi, buổi tối do tôi nấu món ăn Trung Hoa. Trong lòng tôi suy tư một lúc, Peter đặc biệt thích món ăn Trung Hoa, nhất địng Susan cảm thấy sáng nay không ăn được gì hết, nên muốn buổi tối cháu ăn ngon nhiều hơn. Buổi tối hôm đó, tôi trổ tài nấu ăn, làm món sườn chua ngọt mà Peter thích ăn nhất, tôm, và còn sử dụng mì Ý làm theo mì lạnh kiểu Trung Hoa. Peter thích nhất món mì lạnh, người nhỏ nhỏ như thế nhưng có thể ăn được một tô lớn.

Bắt đầu bữa cơm tối, Peter vui mừng nhảy lên ghế ngồi. Susan lại đến gần lấy đi dĩa và nĩa của con, nói: “Chúng ta không phải giao ước rồi, hôm nay con không được ăn gì hết, chính con cũng đồng ý rồi đó.” Peter nhìn khuông mặt nghiêm túc của người mẹ, “òa” lên một tiếng rồi khóc, vừa khóc vừa nói: “Mẹ ơi, con đói, con muốn ăn cơm.” “Không được, nói rồi là phải giữ lời.” Susan không một chút động lòng.

Tôi thấy đau lòng muốn thay cháu cầu xin, nói đỡ lời dùm, nhưng thấy ánh mắt ra hiệu của con trai tôi. Nhớ lại lúc mới đến Mỹ, con trai có nói với tôi: “Ớ nước Mỹ, lúc cha mẹ giáo dục con cái, người ngoài không nên nhúng tay, bất kể là trưởng bối cũng không ngoại lệ.” Không còn cách nào, tôi chỉ còn giữ im lặng mà thôi.

Bữa cơm đó, từ đầu đến cuối, Peter tội nghiệp chỉ ngồi chơi với chiếc xe mô hình, mắt trưng trưng nhìn ba người lớn chúng tôi ăn như hổ đói. Đến đó tôi mới biết dụng ý thật sự của Susan khi để tôi nấu món Hoa. Tôi tin rằng, lần sau, trong lúc Peter muốn giận hờn quăng liệng thức ăn, nhất định sẽ nghĩ đến kinh nghiệm bụng đói nhìn ba mẹ và bà nội ăn cao lương mỹ vị. Bụng đói không dễ chịu tí nào, huống chi là đối mặt với món mình thích ăn.

Lúc ngủ tối, tôi và Susan cùng đến chúc Peter ngủ ngon. Peter cẩn thận dè dặt hỏi: “Mẹ ơi, con đói lắm, giờ con có thể ăn món Trung không?”. Susan mỉm cười lắc đầu, kiên quyết nói: “Không!” Peter nuốt nước miếng lại hỏi: “Vậy để con ngủ dậy rồi khi mở mắt con được ăn chứ?” “Đương nhiên được rồi.” Susan thật dịu dàng khẽ đáp. Peter đã cười tươi ra.

Phần lớn dưới tình trạng này, Peter rất tích cực ăn cơm, nó không muốn vì “tuyệt thực” mà lỡ mất miếng ăn, và chịu cực hình bụng đói. Mỗi lần nhìn thấy Peter ngoạm từng phần lớn thức ăn, lúc miệng và mặt dính đầy thức ăn, tôi lại nhớ đến cháu gái, lúc như tuổi của Peter, vì phải dỗ dành cho nó ăn cơm, mấy người cầm lấy tô cơm và dí theo sau đuôi nó, nó còn chưa chịu ngoan ngoãn, còn ra điều kiện: ăn xong chén cơm mua một kiện đồ chơi, ăn thêm một chén thì mua thêm một đồ chơi…

 Phần 2: Ăn miếng trả miếng

Có một lần, chúng tôi dắt Peter ra công viên chơi. Rất nhanh, Peter đã cùng hai cô gái chơi nấu ăn với nhau. Cái nồi nhỏ bằng mũ, cái xẻng nhỏ, cái thau nhỏ, những cái chén nhỏ xếp đầy trên đường. Bất ngờ, Peter tinh nghịch cầm cái nồi bằng nhựa lên, rất mạnh đập lên đầu cô bé kia, cháu gái kia bần thần một lúc và khóc thật lớn. Còn cháu kia khi thấy tình hình vậy cũng khóc thật lớn. Đại khái, Peter cũng không nghĩ đến hậu quả nghiêm trọng như vậy sẽ xảy ra, đứng qua một bên, trợn mắt nhìn.

Susan đi về phía trước sau khi hiểu được đầu đuôi sự việc, nó không quát nạt một tiếng, cầm lấy cái nồi ấy, gõ một cái mạnh lên đầu Peter. Peter không phòng bị, và té ngã xuống bãi cỏ, khóc nức nở lên. Susan hỏi Peter: “Đau không? Lần sau có còn làm thế nữa không?”. Peter một bên khóc một bên lắc đầu. Tôi tin rằng, lần sau nó sẽ không làm thế nữa.

Cậu của Peter đã tặng cho cháu một chiếc xe đạp nhỏ, Peter rất thích, lấy làm bảo bối không cho ai đụng vào. Lusi cô bé trong xóm là bạn thân của Peter, đã thỉnh cầu Peter mấy lần muốn chạy thử chiếc xe nhỏ này, Peter vẫn không đồng ý. Có một lần, mấy cháu nhỏ chơi chung với nhau, Lusi thừa lúc Peter không để ý lén lén nhảy lên chiếc xe, và chạy đi. Sau khi Peter phát hiện rất phẫn nộ, méc với Susan. Susan đang nói chuyện và uống café với mẹ của những đứa nhỏ kia, bèn mỉm cười trả lời con: “Chuyện của chúng con thì chúng con tự giải quyết, mẹ không quản được.” Peter bất lực quay đi.

Qua được ít lát, Lusi chạy chiếc xe về. Peter vừa thấy Lusi thì lập tức đẩy bạn té xuống đất, dật lại chiếc xe. Lusi ngồi bẹp tại đất và khóc lên. Susan ẵm Lusi dậy và dỗ dành một lát. Rất nhanh sau đó Lusi đã chơi vui vẻ lại với những bạn còn lại.
Peter tự mình chạy xe tới lui một lát thì cảm thấy hơi nhàm chán, nhìn thấy những bạn kia chơi thật vui vẻ với nhau nên nó muốn tham gia chung.

Nó đã chạy tới chỗ Susan, lầu bầu thưa: “Mẹ, con muốn chơi với Lusi và chúng nó.” Susan không đả động gì và trả lời: “Con tự kiếm mấy bạn ấy vậy!”.

"Mẹ ơi, mẹ đi với con hen.” Lời thỉnh cầu của Peter. “Chuyện này không được rồi, lúc nãy con đã làm cho Lusi khóc, giờ con lại muốn chơi với mọi người, vậy con phải tự đi giải quyết vấn đề".

Peter leo lên chiếc xe và chạy từ từ đến chỗ Lusi, lúc gần đến chỗ, thì nó lại quay ngược đi. Chạy tới lui mấy vòng như vậy, không biết từ lúc nào mà Peter và Lusi lại vui vẻ với nhau, hợp thành nhóm ồn ào.

Quản giáo con cái là chuyện của cha mẹ

Cha mẹ của Susan ở tại California, biết tôi đã đến hai người đã lái xe đến thăm chúng tôi. Trong nhà có khách tới, Peter rất hào hứng. chạy lên chạy xuống. Nó lấy cái thùng đựng đầy nước, rồi xách cái thùng bê tới bê lui trong nhà. Susan cảnh cáo nó mấy lần rồi, không được làm nước văng lung tung trong nhà, Peter để ngoài tai.

Cuối cùng Peter đã làm nước đổ hết ra nền. Peter nghịch ngợm còn chưa thấy mình làm sai việc, còn rất đắc ý lấy chân dẫm lên vũng nước, làm ướt hết quần. Tôi lập tức chạy đi lấy cây lau nhà để dọn dẹp. Susan giật lại cây lau nhà và đem đưa cho Peter, nói với nó: “Lau sàn cho khô, cởi đồ ướt ra và tự mình giặt sạch.” Peter không chịu vừa khóc vừa la. Susan không nói thêm lời nào, lập tức kéo nó đến phòng trữ đồ, đóng chặt cửa lại. Nghe từ bên trong tiếng khóc hoảng sợ của nó, tim tôi đau thắt lại, rất muốn chạy đến ẵm cháu ra. Bà ngoại của Peter lại cản tôi, nói: “Đó là chuyện của Susan".

Đến một lát sau, Peter không khóc nữa, nó ở trong phòng trữ đồ hét thật lớn: “Mẹ ơi, con sai rồi.” Susan đứng ở ngoài hỏi: “Thế giờ con biết phải làm gì chưa?” “Con biết.” Susan mở cửa ra, Peter chạy từ phòng trữ đồ ra, nước mắt đầy mặt. Nó cầm cây lau nhà cao hơn 2 người của nó ra sức lau cho khô sàn nhà. Sau đó tự cởi quần áo dơ ra, xách trên tay, trần chuồng chạy vô nhà tắm, hí hửng giặt đồ.

Ông bà ngoại của nó nhìn vào thái độ kinh ngạc của tôi, thích thú mỉm cười. Sự việc này làm tôi cảm động vô cùng. Ở rất nhiều gia đình Trung Quốc, cha mẹ giáo dục con cái thì thường phát sinh vấn đề “đại chiến thế giới”, luôn luôn được ngoại nuông chiều, nội thì can ngăn, vợ chồng cãi nhau, gà bay chó chạy.

Sau này, tôi và ông bà ngoại của Peter nói chuyện, nhắc đến chuyện này, làm tôi ấn tượng sâu sắc bởi câu họ nói: “con cái là con cái của cha mẹ, trước tiên phải tôn trọng cách giáo dục của cha mẹ".

Đứa bé tuy còn nhỏ, nhưng lại bẩm sinh nghịch ngợm, lúc nó quan sát được thành viên trong gia đình có phân biệt khác thường, nó sẽ rất nhạy bén lợi dụng sơ hở. Việc này không làm cải thiện hành vi của nó mà chẳng có lợi cho nó. Ngược lại còn làm cho vấn đề càng nghiêm trọng hơn, thậm chí còn đem lại những vấn đề khác.

Ngoài ra, thành viên trong gia đình còn xảy ra xung đột, gia đình có không khí không hòa thuận sẽ đem đến nhiều cảm giác không an toàn cho trẻ, đối với việc phát triển tâm lý của nó phát sinh  ảnh hưởng bất lợi. Cho nên, dù là bậc cha mẹ hay ông bà có vấn đề phân chia giáo dục con cái, hay là vợ chồng có quan niệm giáo dục khác nhau cũng không nên ở trước mặt con cái xảy ra mâu thuẫn.

Ông bà ngoại của Peter ở lại một tuần và chuẩn bị về Cali. Hai ngày trước khi đi, ông ngoại của Peter rất nghiêm túc hỏi con gái mình: “Peter muốn chiếc xe đào đất, tôi có thể mua cho nó chứ?”. Susan suy nghĩ rồi nói: “Cha mẹ lần đến này đã mua cho nó đôi giày trượt băng làm qùa rồi , đến Noel mới mua nó làm quà vậy!”.

Tôi không biết ông ngoại của Peter nói như thế nào với thằng nhóc này, sau đó tôi dắt cháu đi siêu thị, nó chỉ tay vào món đồ chơi đó nói: “Ông ngoại nói, đến Noel sẽ mua tặng cháu cái này làm quà.” Khẩu khí rất thích thú và mong đợi.

Tuy Susan nghiêm khắc như vậy với cháu, nhưng Peter lại yêu thương mẹ hết mực. Khi chơi ở ngoài, nó sẽ thu thập một số hoa hoặc là lá mà nó cho là đẹp rồi trịnh trọng tặng cho mẹ. Người ngoài tặng quà cho nó, nó luôn gọi mẹ cùng mở quà chung; có thức ăn ngon luôn để một nửa cho mẹ.

Nghĩ đến nhiều đứa trẻ Trung Quốc coi thường và lạnh nhạt đối xử đối với cha mẹ, tôi không thể không kính phục con dâu Tây này của tôi. Theo tôi mà nói, ở phương diện giáo dục con cái của các bà mẹ Phương Tây rất xứng đáng để các bà mẹ  học theo.

Thứ Ba, 19 tháng 11, 2013

Học như thế nào? (phần cuối)

Học như thế nào?

Ngày xưa để học được chữ thánh hiền, cái quan trọng nhất là cần có chí. Cái chí để đi
bắt đom đóm bỏ vào lọ làm đèn mà đọc sách thâu đêm. Trong công việc học tập bây
giờ, trong việc tiếp thu kiến thức khoa học của nhân loại tưởng như vô hạn, chỉ có
chí thôi chắc là không đủ.

Như tôi vừa trình bày ở trên, khoa học không bị cái bệnh tự phụ coi những luận điểm
của mình đúng một cách tuyệt đối, đúng một cách phổ quát. Mỗi lý thuyết khoa học
được khai triển bằng tính toán, bằng lập luận từ một số nhỏ khái niệm, một số tiên
đề cơ sở. Mỗi lý thuyết có logic nội tại của nó, nó không tự mâu thuẫn, nhưng những
kết luận mà người ta rút ra từ nó chỉ khớp với thực tế khách quan trong một phạm vi
nào đó. Theo một nghĩa nào đó, mỗi lý thuyết là một trò chơi trí tuệ, với luật chơi
được xác định rõ ràng mà trong đó người chơi có thể triển khai khả năng tư duy của
mình để đi đến những kết quả nhiều khi nằm ngoài sự mong đợi ban đầu.

Rất ít khi người ta chơi trò gì một mình. Để cho cuộc chơi thực sự cuốn hút, để cho
người chơi có thể thực sự triển khai mọi tiềm năng tư duy của mình để đi đến những kết quả bất ngờ, đi đến sáng tạo, cuộc chơi phải có bạn chơi và phải có trọng tài. Để
minh hoạt quan điểm này, tôi xin đưa ra một gợi ý nhỏ, nhưng rất nghiêm túc.

Nhờ vào internet, hiện tại người ta có thể tìm được miễn phí rất nhiều tài liệu học
tập miễn phí ở trên mạng. Một số trường đại học có tên tuổi như MIT, Stanford còn
tổ chức công bố miễn phí hầu hết các tư liệu học tập. Thay bằng việc phải bỏ ra 50
ngàn đô-la một năm để đến đó học, mà không phải cứ có 50 ngàn đô-la là đã được
nhận vào học, bạn có thể truy cập miễn phí các tư liệu học tập, theo dõi các bài giảng
video. Vậy có đúng là bạn cứ ngồi ở Hà nội, hay Sài gòn, là cũng có thể học như sinh
viên ở MIT hay ở Stanford hay không.

Tôi nghĩ rằng trừ khi bạn có một ý chí sắt đá, dù có được cung cấp tất cả mọi tài liệu
trên đời, dù dược theo dõi miễn phí các bài giảng, ở nhà một mình bạn vẫn không
thể học được. Bởi vì ngồi theo dõi bài giảng trên mạng một mình không phải là một
cuộc chơi thú vị: không có địch thủ, không có đồng đội, không có lộ trình, không thấy
mục tiêu, không thấy giải thưởng. Đó là những thứ không liên quan trực tiếp đến nội
dung khoa học của bài giảng nhưng đó là cái mà người đi học cần để phấn đấu liên
tục. Học một mình, bạn có thể tập trung cao độ trong một hai ngày cho đến một tuần.
Nhưng bạn cần có tập thể, có lớp học, có thầy giáo để duy trì nỗ lực học tập.

Gợi ý của tôi là tại sao các bạn không tự tổ chức cùng học theo giáo trình được cung
cấp trên mạng. Tại sao không thể dùng trực tiếp bài giảng, tư liệu học tập cung cấp
miễn phí trên mạng trong các lớp học chính khoá. Các thầy không nhất thiết phải
giảng cả buổi nữa, mà có thể cho sinh viên xem bài giảng trên mạng, có thể làm trước
phụ đề tiếng việt, sau đó dành thời gian để giải thích thêm, trả lời câu hỏi của sinh
viên, và hướng dẫn làm bài tập. Và cuối cùng là tổ chức thi cử nghiêm túc. Tất nhiên
gợi ý thì dễ, mà làm thì khó, nhưng tôi không tin là việc này không thể làm được.
Kinh phí để tổ chức lớp học như thế có lẽ là không nhiều lắm, nếu so sánh với học
phí 50 ngàn đô la một năm ở MIT hay Stanford, hoặc là so sánh với kinh phí cho các
chương trình tiên tiến do Bộ giáo dục đề ra mấy năm gần đây.

Với gợi ý có tính suy tưởng này, tôi hy vọng làm nổi lên được sự quan trọng của việc
tổ chức học tập. Học tập là một hoạt động tập thể và có tổ chức. Như đã nêu ở trên,
thiếu một tập thể có tổ chức, con người nói chung không có khả năng duy trì nỗ lực
của mình trong một thời gian dài. Thiếu tranh biện con người nhanh chóng lạc vào
con đường chủ quan, con đường luôn dẫn đến cái đích là sự bế tắc. Bản tính con
người là hiếu thắng, cái cần thiết để tạo ra sự sôi động trong tranh luận, những cũng
là cái làm tha hóa cuộc tranh luận, biến nó thành chiến trường để người này đè bẹp
người kia. Vì vậy trong mọi cuộc chơi tập thể cần có một luật chơi lành mạnh để cho
sự cạnh tranh chỉ tạo ra nỗ lực để mỗi người vượt lên chính mình, chứ không phải là
cái cớ để thỏa mãn bản năng hiếu thắng. Và cuộc chơi cần một người trọng tài, nắm
vững luật lệ và có thẩm quyền điều khiển cuộc chơi. Ngoài ra, chính những ràng
buộc của luật chơi bắt người chơi phải vươn tới sự sáng tạo thực sự.

Tôi để ý thấy người ta phá bỏ luật chơi dễ dàng quá. Tôi xin dẫn một ví dụ nhỏ là việc
viết thư giới thiệu. Viết thư giới thiệu là một công việc khá vất vả mà lại không thể mong đợi phần thưởng gì khác ngoài cái cảm giác hoàn thành bổn phận. Để giới
thiệu cho một đồng nghiệp vào một vị trí phó giáo sư, hay giáo sư, thường thì người
giới thiệu phải tìm hiểu kỹ công trình của người mình giới thiệu để chỉ ra chỗ nào
hay, chỗ nào đặc sắc, chỗ nào thì cũng chỉ bình thường, và nêu ra ý nghĩa chung của
công trình. Không viết được đầy đủ nội dung như vậy, thì lá thư giới thiệu không có
mấy trọng lượng, mà người viết thư giới thiệu lại có thể bị đánh giá, hoặc là về sự
nghiêm túc, hoặc là về trình độ. Viết thư là một việc rất vất vả, mà không có ai khen
ông này ông kia viết thư giới thiệu rất hay, vì trên nguyên tắc thư giới thiệu được giữ
bí mật. Tóm lại, viết thư giới thiệu là một việc vất vả, không có bổng lộc, nhưng lại
cần phải làm để ủng hộ một người đồng nghiệp xứng đáng, hoặc chỉ đơn thuần là để
thực hiện bổn phận của mình. Viết thư giới thiệu cho sinh viên cũng mất công,
nhưng không vất vả như viết thư giới thiệu cho đồng nghiệp.

Có một lần, một sinh viên mà tôi đã từng dạy ở Hà nội nhờ tôi viết thư giới thiệu. Khi
tôi còn đang do dự vì tôi đánh giá bạn ấy không thực sự xuất sắc, thì anh ta gửi cho
tôi một bức thư giới thiệu soạn sẵn để tôi chỉ việc ký vào đó. Khi tôi tỏ ra vô cùng
ngạc nhiên về cách làm này, thì bạn ấy trình bày là các thầy giáo khác yêu cầu bạn ấy
làm như thế. Một số người có thể coi đây là việc nhỏ, nhưng tôi nghĩ chính từ những
chuyện nhỏ như thế mà cả hệ thống bị tha hoá.

Khi chuẩn bị bài nói chuyện này, ý định của tôi là chia sẻ những suy nghĩ tản mạn của
mình về việc học tập, chứ không định phê bình ai cả, càng không có ý định phê bình
nền giáo dục ở nước ta. Đã có nhiều người chỉ ra rất nhiều bất cập, tôi không thấy
cần thiết phải hoà thêm tiếng nói của mình vào đó. Nhưng nếu chỉ nêu ra một vấn đề,
vấn đề lớn nhất, thì theo tôi đó là sự tha hóa của cả hệ thống.

Xin quay lại sự kiện Đồi ngô mà các bạn đều đã biết cả. Đây là một sự kiện vô cùng
đặc biệt, vì chuyện thí sinh quay phim giám thị vi phạm qui chế thi là điều chưa từng
có tiền lệ trong lịch sử nhân loại. Đây là một câu chuyện rất buồn, nó phản ánh rõ nét
sự tha hoá của hệ thống. Hãy khoan quy trách nhiệm cho một cơ quan, một cá nhân
nào mà hãy bình tâm suy nghĩ. Để cho một việc như vậy xảy ra, phải có nhiều người
từ trung ương đến địa phương, ở trong và ngoài ngành giáo dục, đã không tôn trọng
luật chơi. Kết quả là kỳ thi tốt nghiệp, cái đáng ra phải là một thủ tục mang tính
nghiêm cẩn, phải là một cái mốc thiêng liêng cho cả một quá trình lao động học tập
của học sinh, lại trở thành một trò đùa, một trò đùa làm chúng ta muốn khóc.

Nước Mỹ có thể tự hào về những trường đại học của mình. Các đại học ở Mỹ thường
là tương đối trẻ, trường đại học Chicago nơi tôi làm việc cũng mới khoảng 100 tuổi,
đồng niên với Đại học quốc gia Hà nội. Có lẽ cũng phải trả lời câu hỏi, cái gì là “bí
quyết thành công” của họ. Vào thời điểm hiện tại thì ta có thể nói rằng lý do thành
công của họ là họ rất giàu, có nhiều giáo sư giỏi, có cơ sở vật chất đầy đủ, hiện đại.
Nhưng nói như thế là nhầm lẫn giữa kết quả và nguyên nhân. Ban đầu, họ không
giàu, mà cũng không có nhiều người thực sự xuất sắc nếu so với cái trường đại học ở
châu Âu vào cùng thời. Tuy không có một câu trả lời duy nhất, nhưng một nguyên
nhân chắc chắn phải nhắc đến là tinh thần fair-play, mọi hành vi ăn gian đều bị trừng
trị một cách vô cùng nghiêm khắc. 
Tôi cho rằng sự trung thực là một hành vi khó mà học được từ trong sách vở. Để trẻ
học được tính trung thực, trước hết người lớn cũng phải học tính trung thực, để tự
biết mà làm gương.

Tôi đã nói nhiều về sự cần thiết của việc tổ chức học tập, tính kỷ luật và tính trung
thực. Nhưng bạn có thể thắc mắc rằng tại sao tôi nói về trường học mà như là về
doanh trại quân đội.

Tính kỷ luật và trung thực tất nhiên là không đủ. Cái còn thiếu chính là “niềm say
mê” mà tôi nhắc đến lúc bắt đầu.  Say mê đi tìm cái mới, cái chưa biết, tìm lời giải
thích cho những gì còn chưa hiểu. Niềm say mê đi từ đâu đến? Thú thực là tôi không
biết chắc chắn, và vì thế mà tôi giả sử rằng con người sinh ra với một bản năng
hướng thượng, nói cách khác là đã có sẵn trong mình mầm mống của niềm ham mê.
Tôi nghĩ rằng thực ra câu hỏi niềm ham mê sinh ra từ đâu không quan trọng bằng
làm thế nào để gìn giữ niềm ham mê, và không để cho nó bị tha hoá. Niềm đam mê,
tính hướng thượng hướng thiện là động cơ cho việc học tập, và chính việc học tập
đích thực là cái nuôi dưỡng sự hướng thượng hướng thiện bởi những giá trị nhân
văn chân thiện, chân mỹ, bởi tình yêu sự thật, và bởi niềm hạnh phúc của sự khám
phá, để vượt qua biên giới giữa những gì đã biết và những gì chưa biết.

Một người bạn tôi có góp ý với tôi rằng bên cạnh niềm ham mê, đừng quên bổ sung
sự quả cảm. Sự quả cảm là cái bạn cần để không để lười biếng, hèn nhát dụ dỗ mà
quay lưng lại với sự thật. Sự quả cảm cũng là cái bạn rất cần khi đi tìm cái mới. Bạn
có tập thể, có đồng đội để cùng học tập, tiến bộ. Nhưng dựa vào kinh nghiệm cá
nhân, tôi thấy rằng khi đã vượt qua biên giới của những gì đã biết để thực sự đuổi
theo cái chưa biết, bạn rất cần tính quả cảm vì đi tìm cái mới thường là một hành
trình cô đơn, và nó có thể kéo dài nhiều năm.

Lời cảm ơn

Xin chân thành cảm ơn bà Nguyễn Ái Cần, các ông Bùi Đức Lại, Nguyễn Xuân Long,
Hoàng Hồng Minh và Nguyễn Phương Văn về những góp ý quí báu.

Tài liệu tham khảo

Hannah Arendt: Crise dans l’éducation

Hà Huy Khoái:

Ngô Bảo Châu: “Giữ ký ức” có thể tìm được trên trang thichhoctoan.net.

Học như thế nào? Ngô Bảo Châu, 5/3/2013  
Học như thế nào? (phần 2) 
Học như thế nào? (phần cuối)
 

Học như thế nào? (phần 2)

Học chữ hay học làm người?

Gần đây, trên báo chí có khá nhiều người ở đặt ra câu hỏi “Cần học chữ hay học làm
người?” Hoặc giữa hai cái, cần học cái nào trước. Câu hỏi này thực ra tối nghĩa. Học
chữ, là tiếp thu kiến thức. Còn học làm người là như thế nào, hẳn có nhiều cách hiểu
khác nhau. Có thể hiểu theo nghĩa hẹp: học làm người như học kỹ năng sống, học
nghệ thuật sống, tóm lại là học những hành vi văn minh.  Cũng có thể hiểu học làm
người theo nghĩa rộng tức là học những gì làm nên cốt cách của một con người - như
vậy thì lại quá rộng, và bao hàm nốt cả học chữ rồi. Có lẽ vì ý nghĩa của câu hỏi không
được phân tích rạch ròi mà nhiều cuộc thảo luận trên báo chí về đề tài có cái vẻ gì đó
hơi luẩn quẩn.

Trong cái nghĩa hẹp, có thể đặt lại câu hỏi trên khác đi, và làm cho nó rõ nghĩa hơn:
“Trường học phải dạy chữ hay dạy kỹ năng sống, nghệ thuật sống?” Có vẻ như càng
ngày càng có nhiều người ngả về quan điểm hiện đại “Trường học phải dạy cho trẻ
kỹ năng sống”. Quan điểm cổ điển được nhà triết học Đức Hannah Arendt phát biểu
rành rọt trong bài viết “Khủng hoảng trong giáo dục” như thế này: “Chức năng của
nhà trường là dạy cho trẻ thế nào là thế giới, chứ không phải là rèn cho chúng nghệ
thuật sống”. Tôi đồng ý với quan điểm này, và trong phần tiếp theo của bài viết quan
điểm này sẽ được làm rõ hơn lên.

Ẩn trong câu nói của bà Hannah Arendt, có cả câu trả lời cho câu hỏi học làm người
theo nghĩa rộng. Học làm người là học về thế giới, trong đó có thế giới tự nhiên và
thế giới con người, để mỗi cá nhân nhận thức được vị trí của mình ở trong đó, nhận
thức hết các tương tác giữa cá nhân mình với những người khác, để triển khai mọi
tiềm năng của mình, để hoàn thiện mình và đồng thời làm cho thế giới xung quanh
trở nên một nơi an toàn hơn, thân thiện hơn cho cuộc sống.

Để trẻ có kỹ năng sống, người lớn phải là tấm gương

Tôi từng nghe người ta kể chuyện một đứa bé sơ sinh bị sói tha đi. Sau này người ta
tìm lại được đứa bé. Tuy vẫn còn hình hài của một con người, tính nết của nó là tính
nết của loài sói. Ở đây, chính cái “tiềm năng hướng thượng, hướng thiện” đã biến nó
thành người sói. Đối với nó, cái đại diện cho sự tốt đẹp chính là mẹ sói của nó. Mẹ sói
cho nó bú, tha mồi về cho nó ăn. Đứa trẻ lớn lên giữa bày sói tất trở thành một con
sói, cái nó coi là tốt là cái tốt của loài sói. Kể ra nếu nó tiếp tục sống trong rừng cùng
với bày sói thì như thế cũng không sao. Bi kịch đến với nó vào cái ngày mà người ta
buộc nó quay lại sống với con người.

Ở Lào, ở Thái Lan có phong tục gửi trẻ nhỏ vào sống ở trong chùa một thời gian, từ
ba ngày, ba tuần, ba tháng cho đến ba năm. Ở trong chùa, ngoài việc học kinh kệ, trẻ
còn học yêu quí cuộc sống thanh đạm, ngăn nắp của người tu hành. Khi đi thăm Lào và Thái Lan, người ta luôn cảm thấy ngạc nhiên về sự sạch sẽ, ngăn nắp của làng quê,
kể cả ở những nơi nghèo nhất.

Tôi xin phép dẫn thêm một ví dụ cá nhân, nhỏ nhặt và tầm thường thôi. Vợ chồng tôi
ít xem vô tuyến, hầu như không xem bao giờ. Có lẽ vì thế mà mấy đứa con của chúng
tôi hoàn toàn không có sở thích xem truyền hình, bố mẹ không cần cấm đoán hay
hạn chế gì cả. Nếu có thời gian, chúng nó thích đọc sách hơn. Nhiều khi tôi muốn xem
phim cùng với đám trẻ con, tôi lại phải mặc cả với chúng.

Những ví dụ này nhắc nhở chúng ta, những người có bổn phận làm người lớn, đừng
bao giờ quên rằng dù muốn hay không muốn, chúng ta luôn là tấm gương để cho trẻ
soi vào. Ngoài trách nhiệm cho trẻ một mái nhà, cung cấp thức ăn cho đủ no, quần áo
cho đủ mặc, người làm cha mẹ luôn phải tâm niệm rằng mình cư xử ngày hôm nay
như thế nào, ngày mai trẻ sẽ cư xử giống như thế. Đó là bài học của chuyện cái máng
gỗ mà chắc các bạn đều biết cả.

Cái tôi muốn nói là nếu người lớn biết cư xử đúng mực thì trẻ con không cần đi học
những lớp kỹ năng sống nữa. Và người có trách nhiệm chính trong việc giáo dục
hành vi cho trẻ là cha mẹ, gia đình, chứ không phải nhà trường. Những bài lên lớp
của thầy cô giáo không có cùng tác dụng nhiều lên hành vi của đứa trẻ như chính
hành vi của cha mẹ nó.

Tất nhiên tôi không muốn nói rằng trường học hoàn toàn không có chức năng giáo
dục hành vi cho trẻ nhỏ. Trong tâm hồn trẻ nhỏ, thầy cô giáo có một vị trí thiêng
liêng, có lẽ thiêng liêng hơn bố mẹ, vì thế nên cách ứng xử của các thầy cô trong cuộc
sống nhà trường sẽ ảnh hưởng trực tiếp hành vi của học sinh. Nhưng không vì thế
mà cha mẹ có thể chút toàn bộ trách nhiệm giáo dục hành vi của trẻ lên vai thầy cô
giáo.


Vai trò của giáo dục nhân văn trong sự hình thành nhân cách

Khi đứa bé mới ra đời, bản năng sinh tồn điều khiển mọi hoạt động của nó. Đối với
nó, toàn bộ thế giới là bầu sữa mẹ. Khi lớn lên, nó có thêm nhận thức về thế giới
xung quanh, về những con người khác. Dần dần nó hiểu rằng không chỉ có nó cần
sinh tồn, mà cả những người khác cũng cần sinh tồn như nó. Điều này thoạt nghe
thật hiển nhiên, nhưng đó là một bước chuyển hoá vĩ đại của tư duy, đứa trẻ đã chấp
nhận sự tồn tại của khách thể, của người khác, như một lực lượng đối lập với bản
thân nó.

Chấp nhận sự tồn tại của khách thể là điều kiện để phân biệt giữa cái thiện và cái ác.
Cái thiện là sung sướng trong sự hạnh phúc của người khác, đau khổ trong sự bất
hạnh của người khác, còn ngược lại cái ác là sung sướng trong sự bất hạnh của người khác, đau khổ với sự hạnh phúc của người khác. Như vậy, khi đứa trẻ còn chưa nhận
thức về người khác, theo nghĩa ở trên, các khái niệm thiện và ác chưa thể áp dụng
vào nó. Thêm nữa, khái niệm “người khác” không nhất thiết phải là người. Đó có thể
là con ong, cái kiến. Đó cũng có thể là con lợn ở Bắc Ninh. Cái cảm giác phấn khích,
hân hoan của con người trong cái chết tức tưởi của con lợn biểu đạt cái ác ở trạng
thái thuần tuý nhất của nó.

Việc học, theo Hannah Arendt, đó là cố gắng để hiểu thế giới xung quang, trong đó có
thế giới tự nhiên và thế giới con người. Nó bắt người ta phải nhận thức về sự tồn tại
của người khác, cái là điều kiện để phân biệt giữa thiện và ác. Chỉ biết phân biệt
thiện và ác thôi không đủ. Có một câu ngạn ngữ nói rằng “Đường đến địa ngục lát
bằng thiện tâm”.  Biết phân biệt rành rọt giữa thiện và ác là cần thiết nhưng sẽ thật
thiếu sót, thậm chí nguy hiểm, nếu coi việc hình thành nhân cách chỉ đơn giản là
phân biệt giữa thiện và ác. Trong phần lớn các trường hợp, vấn đề không phải là ở
chỗ phân biện giữa thiện và ác.

Để nhận thức được vị trí của mình trong thế giới, mỗi người phải tự đặt ra cho mình
những câu hỏi căn bản nhất về thân phận con người, phải tự tìm ra câu trả lời của
mình cho những câu hỏi đó, hoặc ít ra cũng biết về những câu trả lời mà tiền bối đã
từng đưa ra. Việc phân biệt giữa cái thiện và cái ác là một trong những câu hỏi như
thế, nhưng nó không phải là câu hỏi duy nhất và có lẽ cũng không phải là câu hỏi
quan trọng nhất.

Có những câu hỏi thoạt nghe thì có vẻ ngây thơ ví dụ “Những cái gì là nhu cầu căn
bản của con người? Tự do và công bằng có phải là như cầu căn bản của con người
hay không”. Con người có cả nhu cầu sống trong cộng đồng, trong xã hội, vì mỗi
người không thể làm ra được hết tất cả những gì mình cần. Nếu tự do và công bằng
cũng là nhu cầu căn bản thì xã hội phải được thiết kế thế nào để cho tự do của mỗi
người và sự công bằng giữa người này và người khác được bảo đảm? Triển khai câu
hỏi đến đây thì ta thấy câu hỏi này phức tạp hơn nhiều so với câu hỏi phân biệt giữa
cái thiện và cái ác, và có lẽ cũng quan trọng hơn. 

Trả lời cho câu hỏi về vai trò của giáo dục nhân văn nói chung vượt ra ngoài khuôn
khổ của bài nói chuyện này và khả năng của tôi. Trong phần tiếp theo, tôi muốn thu
hẹp câu hỏi lại và trao đổi kỹ hơn về vai trò của giáo dục nhân văn trong sự hình
thành nhân cách.

Cơ chế căn bản cho việc hình thành nhân cách là chiêm nghiệm về một sự việc cụ thể
đã xảy ra trong một hoàn cảnh cụ thể, ngẫm xem người ta đã quyết định như thế
nào, đã làm gì, và hậu quả, ảnh hưởng của việc đó lên cuộc sống của người khác và
của chính người đó như thế nào. Có thể thấy rằng con người chiêm nghiệm bằng xúc
cảm nhiều hơn là bằng tư duy. Người ta chiêm nghiệm sâu sắc nhất về những gì xảy
ra với chính mình, hoặc là xảy ra với người thân của mình, vì những trải nghiệm đó
để lại những xúc cảm mạnh nhất. Nhưng nói chung, trải nghiệm của một người trẻ,
kể cả những trải nghiệm được gia đình chia sẻ, không đủ phong phú để người đó
hình thành một nhân cách vững vàng. Vốn trải nghiệm của anh ta sẽ giàu có hơn nhiều, nếu anh ta biết đặt mình vào trong lịch sử, nơi những câu chuyện của quá khứ
được ghi lại một cách trung thực, hoặc là trong văn học, nơi có những câu chuyện
lớn, tuy có thể là được hư cấu, nhưng luôn xuất phát từ sự trải nghiệm chân thực của
nhà văn.

Trong một bài viết trên blog cá nhân, đặt tên là Giữ ký ức, tôi có kể câu chuyện về
học sinh phổ thông ở Đức học về tội ác của chế độ quốc xã lên người Do thái như thế
nào. Học sinh Đức học ở trong sách vở, đọc nhật ký của cô bé Anne Frank viết khi
trong thời gian hai năm trốn trong góc tủ để rồi cuối cùng cũng bị bắt rồi bị giết. Họ
đi tham quan trại tập trung Buchenwald. Nhưng đáng ngạc nhiên hơn cả là học sinh
Đức còn phải tự đi điều tra xem xung quanh nơi mình ở, trước đây đã từng có người
Do thái nào sống, họ tên là gì, họ đã bị bắt trong hoàn cảnh nào, đã bị giết chết như
thế nào. Làm như thế để cho những trải nghiệm trở nên gần gũi nhất. Một vài tháng
sau khi viết bài này, tôi có nói về chuyện với một nhiếp ảnh gia người Đức, ông ấy
nói người Đức phải làm như thế vì nếu không họ sẽ lại phạm lại đúng những sai lầm
khủng khiếp nhất trong quá khứ. Giáo sư Hà Huy Khoái cũng bình luận như thế này:
“Người Đức khôn thật, họ cho học sinh học thuộc bài lịch sử! Dân tộc nào không làm
điều đó, chắc chắn phải học đi học lại nhiều lần. Chưa thuộc bài nào, lịch sử sẽ bắt
học lại bài đó. Mà mỗi lần học lại, thi lại đều phải trả giá đắt hơn trước. Giá ở đây có
thể là máu, không chỉ là tiền như sinh viên thi lại!”.

Tôi nghĩ về câu chuyện này từ một khía cạnh khác. Trải nghiệm chân thực về những
sự thật dù đau đớn đến mấy cũng làm cho cốt cách con người trở nên mạnh mẽ, trái
với những sự dối trá, có thể ngọt lịm, nhưng luôn làm tha hoá tâm hồn con người.
Chức năng của giáo dục nhân văn không phải là ngợi ca cái thiện, phê bình cái ác mà
là giúp con người tìm đến sự thực và để cảnh giác với sự dối trá cả của người khác và
của chính mình. Cảnh giác với bản năng lười nhác, ích kỷ và hèn nhát, những cái rất
giỏi ngụy trang trong tấm áo thiện tâm để dắt tay con người đi về địa ngục, cái không
phải gì khác mà chính là sự tha hóa hoàn toàn của tâm hồn con người. Giáo dục nhân
văn nghiêm túc rèn cho chúng ta thái độ nỗ lực không mệt mỏi trong cố gắng đi tìm
sự thật cùng với khả năng chiêm nghiệm bằng tư duy vì nếu chỉ chiêm nghiệm bằng
xúc cảm, con người rất dễ bị đánh lừa.

Tôi đã nhắc đến chuyện bản năng hướng thượng hướng thiện của con người rất dễ
bị tha hoá để trở thành hiện tượng sùng bái cá nhân, có thể xuất hiện dưới dạng là
sùng bái lãnh tụ hoặc ca sĩ Hàn quốc. Vai trò của giáo dục nhân văn là dắt tay con
người đi theo “tấm biển chỉ đường của trí tuệ” để đi về với cái chân thiện, chân mỹ.
Ngôn ngữ và thái độ khoa học

Nếu bản năng hướng thượng, hướng thiện là động cơ của học tập, nó không phải là
công cụ. Con người biểu đạt sự hiểu biết về thế giới khách quan bằng lời. Con người
thụ hưởng vốn hiểu biết mà nhân loại tích tụ được thông qua ngôn ngữ. Có hai thái
độ ứng xử với ngôn ngữ đối lập nhau, dẫn đến hai phương pháp tư duy đối lập nhau: một bên là thái độ tôn giáo, coi ngôn từ như đối tượng để tôn thờ, một bên là thái độ
khoa học, coi ngôn từ như một công cụ để định hình tư tưởng.

Định nghĩa chữ Đạo trong Đạo Đức Kinh là điển hình của thái độ tôn giáo đối với
ngôn từ. Đạo được mô tả như thế này, như thế kia, Đạo không phải là thế này, không
phải là thế kia, nhưng không một lần Đạo được định nghĩa là cái gì. Đạo là một từ đại
diện cho một khái niệm linh thiêng không định nghĩa được, người ta chỉ có thể biết
thuộc tính “râu ria” của nó là như thế này, như thế kia, cùng lắm là biết nó không
phải là cái gì, tức là hạn chế khái niệm bằng phủ định, chứ không thể nói nó là cái gì,
tức là định nghĩa khái niệm bằng khẳng định.  Tính linh thiêng của chữ Đạo nằm
chính ở chỗ ta không thể định hình được nó.

Tôi dẫn ví dụ Đạo Đức Kinh không với ý muốn đánh giá thấp giá trị triết học của tác
phẩm này. Tôi chỉ muốn chỉ ra sự đối lập với giữa thái độ tôn giáo của nó đối với
ngôn ngữ và thái độ khoa học. Thái độ tôn giáo với ngôn ngữ có ưu điểm là những
luận điểm của nó mang vẻ tính bao quát, trong bất kỳ hoàn cảnh nào của cuộc sống,
con người cũng có thể vận dụng những luận điểm của tôn giáo, vừa là để diễn giải
một phần sự vận động của thế giới, cũng vừa là để an ủi chính bản thân mình. Thái
độ này có nhược điểm là từ những luận điểm của nó người ta không rút ra được kết
luận nào chi tiết, cụ thể.

Đóng góp lớn nhất của văn hoá Hy lạp cổ đại cho tư duy loài người có lẽ là sự phát
minh ra thái độ khoa học với ngôn ngữ mà điển hình là sách Cơ sở của Euclid. Để nói
về hình tròn, người ta không nói nó là cái gì đó giống mặt trời, hay mặt trăng vào
thời kỳ trăng tròn, mà người ta định nghĩa đường tròn là tập hợp các điểm có một
khoảng cách cho trước đến một điểm cho trước, gọi là tâm của đường tròn. Cái đáng
lưu ý nhất là khái niệm luôn được xây dựng trên cơ sở khẳng định: nó là cái gì, chứ
không phải trên cơ sở phủ định: nó không phải là cái gì.

Cũng cần lưu ý là ở đây đường tròn không được gán cho bất kỳ một thuộc tính
thiêng liêng nào cả, nó chỉ là cái tên đưa ra để định hình khái niệm tập hợp các điểm
có khoảng cách cho trước đến một điểm cho trước. Thậm chí trong thực tế, không có
cái gì chính xác là hình tròn cả, chỉ có những hình tròn gần đúng mà thôi. Các định
nghĩa của Euclid chỉ có giá trị giới hạn trong phạm vi của hình học. Theo một nghĩa
nào đó, hình học là một sản phẩm thuần tuý của trí tuệ, là một trò chơi của tư duy.
Giá trị lớn nhất của trò chơi này nằm ở ngay trong sự hạn chế của nó. Vì luật chơi
bao gồm một số tiên đề, và một số phép suy luận được quy định trước, một phát
biểu hình học chỉ có thể hoặc là đúng, hoặc là sai, một chứng minh chỉ có thể là đầy
đủ chặt chẽ hoặc là thiếu sót ngộ nhận.  Đây là cuộc chơi mà tư duy logic của con
người được tha hồ thi thố. Cho đến bây giờ nó vẫn giữ nguyên ý nghĩa đó. Để cho trẻ
học được phương pháp lập luận chặt chẽ, không có gì tốt hơn là học hình học Euclid.

Ưu điểm của trò chơi tư duy mà trong các luật chơi được cố định trước là trong
phạm vi của cuộc chơi này, mọi cái đúng cái sai đều rõ ràng. Ưu điểm quan trọng
khác là con người có thể rút ra kết luận rõ ràng chi tiết từ hệ thống tiên đề và khái
niệm, để rồi đem nó ra kiểm chứng, đối chiếu với quan sát thực tế. 
Ở điểm này, thiên hướng của khoa học khiêm tốn hơn nhiều so với thiên hướng của
tôn giáo. Những luận điểm của tôn giáo thường có tính khái quát cao, nhưng không
có tính chi tiết để có thể kiểm chứng đối chiếu được qua các quan sát thực tế. Trong
mọi trường hợp tôn giáo yêu cầu người ta phải tin và phải chấp hành. Ngược lại, lý
thuyết khoa học đưa ra những luận điểm đủ cụ thể để có thể kiểm chứng với thực tế
và dành cho quan sát thực tế quyền phán xét nó đúng hay nó sai. Sự khiêm tốn, luôn
đặt mình vào vị trí để cho thực tế phán xét, hoặc khẳng định, hoặc phủ nhận, theo
Karl Popper chính là thuộc tính đặc trưng của khoa học, đối lập với tôn giáo, tín điều.

Sự khiêm tốn này cũng chính là cái làm nên sức sống của khoa học. Tôn giáo sẽ chết
khi con người không còn đặt lòng tin vào tín điều nữa. Còn trong bản chất của mình,
luận điểm khoa học chấp nhận sự phủ định, nó như chỉ chờ được thực tế phủ định để
hồi sinh, lột xác thành một lý thuyết khoa học mới, phức tạp hơn, có phạm vi ứng
dụng rộng hơn lý thuyết cũ. 

Trong bản chất, mọi lý thuyết khoa học chỉ mô tả được một phạm vi nào đó của thế
giới, lý thuyết càng thô sơ thì phạm vi áp dụng của nó càng hẹp. Đi ra ngoài phạm vi
đó là bắt đầu một cuộc chơi mới, con người lại phải sáng tạo một hệ thống ngôn ngữ,
khái niệm mới, tìm ra một luật chơi mới.  Nhưng không phải vì thế mà lý thuyết cũ
nhất thiết phải bị thủ tiêu khi một lý thuyết mới ra đời. Trong phạm vi cuộc sống
hàng ngày, khi các vật thể chuyện động chậm hơn nhiều so với ánh sáng, cơ học
Newton vẫn đúng.

Người đi tìm hiểu thế giới gần như bắt buộc phải đi lại gần như toàn bộ hành trình
tìm hiểu thế giới của loài người. Đây là cái khó khăn rất lớn. Đã có một số quan điểm
sai lầm trong giáo dục muốn bỏ qua những lý thuyết khoa học trước đây để đưa học
sinh đến với những lý thuyết tiên tiến nhất. Ở phương tây những vào những năm 70
đã có trào lưu xây dựng lại toàn bộ giáo trình toán học dựa theo cách trình bày toán
học hiện đại của nhóm Bourbaki. Kết quả của thí nghiệm đại trà này không tốt. Cảm
nhận chung là trình độ toán học của học sinh tốt nghiệp phổ thông kém đi nhiều.

Gần đây, con lắc cực đoan có vẻ như bị văng theo hướng ngược lại. Người ta muốn
lược đi khỏi chương trình tất cả những gì được coi là không cần thiết cho cuộc sống
hàng ngày. Tôi vô cùng ngạc nhiên bởi ý kiến của một vị Giáo sư cho rằng học sinh
không cần học vi phân, tích phân vì hàng ngày có ai cần dùng đến vi phân, tích phân
đâu. Nhưng chính là nhờ vào thiên tài của Newton và Leibnitz, các hiện tượng tự
nhiên được mô tả một cách tường minh dưới dạng phương trình vi phân. Loại bỏ đi
đạo hàm tích phân có khác gì tự nguyện quay lại với tư duy mơ hồ của siêu hình
trung cổ.

Vấn đề không phải đem những kiến thức khoa học tiên tiến nhất đến cho học sinh, vì
có muốn cũng không làm được. Vấn đề cũng không phải là tập trung rèn luyện cho
học sinh kỹ năng tính toán để phục vụ cho những nhu cầu hàng ngày. Cái cần làm
trang bị cho học sinh phương pháp tư duy khoa học: định hình rõ nét khái niệm, liên hệ những khái niệm đó với thế giới khách quan, biết lập luận, biết tính toán để đưa
ra những luận điểm cụ thể, kiểm chứng những luận điểm đó với thế giới khách quan.

Còn một thuộc tính khác của một khoa học có sức sống là khả năng đem đến sự bất
ngờ. Hình học Euclid không còn khả năng đưa ra những khẳng định bất ngờ nào nữa
và theo nghĩa này, nó là một môn khoa học chết. Nó chỉ còn là một trò chơi trí tuệ để
học sinh rèn luyện khả năng tư duy logic. Nhận định của Einstein rằng tia sáng bị
uốn cong khi đến gần các vật thể có khối lượng lớn nhờ vào những tính toán trong lý
thuyết tương đối là một bất ngờ khi trong hình dung của chúng ta, đường thẳng là
đường truyền của ánh sáng. Sức sống của một bộ môn khoa học thể hiện ở chỗ từ
một hệ thống khái niệm, tiên đề chấp nhận được, bằng tính toán và lập luận, người ta
có thể đưa ra những giải thích chưa biết cho những hiện tượng đã biết, hoặc là tiên
đoán về những hiện tượng chưa được biết đến.

Khi khoa học “nhận nhiệm vụ” diễn giải, chứng minh cho một luận điểm cho trước,
để phục vụ một mục đích chính trị hoặc tôn giáo, bất kể mục đích đó tốt hay xấu, về
mặt thực chất khoa học đã mất đi cái làm nên sức sống của nó. Vấn đề “giao nhiệm
vụ” này ảnh hưởng nhiều đến khoa học xã hội hơn là khoa học tự nhiên. Như một số
người đã nhận xét, ở các nước xã hội chủ nghĩa cũ, các ngành khoa học tự nhiên có
thể rất phát triển trong khi các ngành khoa học xã hội để lại rất ít dấu ấn vào văn
minh nhân loại. GS Hà Huy Khoái có lần phát biểu nửa đùa nửa thật rằng khoa học xã
hội ở Việt Nam thực chất không tồn tại. Phát biểu của ông đã gây ra những phản ứng
khá dữ dội. Nói một cách khách quan hơn, nó có tồn tại nhưng yếm khí, thiếu sức
sống.

Học như thế nào? Ngô Bảo Châu, 5/3/2013  
Học như thế nào? (phần 2) 
Học như thế nào? (phần cuối)
 

Học như thế nào? Ngô Bảo Châu

Học như thế nào? Ngô Bảo Châu, 5/3/2013
 
Tôi rất hay được các em học sinh, sinh viên và các bậc phụ huynh hỏi về “bí quyết
học tập”.  Tôi thường trả lời “Không có bí quyết gì cả. Quan trọng là niềm say mê.”
Trả lời như vậy là một cách né tránh. Không sai nhưng cũng không đầy đủ. Tôi bắt
buộc phải trả lời như thế khi mình chưa bao giờ suy nghĩ về vấn đề này một cách
thấu đáo. Nhưng không thể nào né tránh được mãi câu hỏi này. Cũng không thể nào
trút hết trách nhiệm lên đầu người khác bằng cách nói: “đây là chuyện chuyên môn
của những người làm công tác nghiên cứu khoa học giáo dục”.

Điểm lại cuộc đời mình, tôi thấy cho đến thời điểm này mình không làm gì khác
ngoài việc đi học, sau đó dạy học và nghiên cứu khoa học. Trong cái quá trình ấy,
chắc tôi cũng đã từng có những suy nghĩ riêng. Chỉ có điều những suy nghĩ đó chưa
bao giờ được được sắp xếp lại một cách hệ thống và được diễn đạt một cách rành
rọt. Chuẩn bị cho buổi nói chuyện này là cơ hội rất tốt để tôi làm việc này, cái việc mà
phải thú thật là rất vất vả nhưng hy vọng là có ích.

Tôi xin cảm ơn International Peace Foundation và trường Đại học bách khoa đã cùng
tổ chức sự kiện này. Cảm ơn tất cả các quí vị, các bạn sinh viên, học sinh đã đến dự
buổi nói chuyện ngày hôm nay. Sự quan tâm của quí vị là động cơ mạnh để tôi hoàn
thành bài trao đổi này.

Dàn bài của tôi dựa vào ba câu hỏi. Thứ nhất: cái gì là động cơ căn bản cho việc học
tập. Thứ hai: học chữ hay học làm người? Thú thực là tôi không thích câu hỏi này, vì
nó rất mập mờ và đa nghĩa. Nhưng tôi sử dụng chính tính đa nghĩa của nó để triển
khai thành các câu hỏi nhỏ xung quanh việc học cái gì? Câu hỏi cuối cùng làm thành
nhan đề của bài nói chuyện này: học như thế nào? Tôi không có tham vọng đưa ra
câu trả lời thấu đáo, đầy đủ cho cả ba câu hỏi trên, mà chỉ có ý định sắp xếp lại
những suy nghĩ tản mạn của mình thành những câu trả lời không cầu toàn. Tôi hy
vọng rằng vào cuối buổi nói chuyện, chúng ta sẽ còn thời gian để trao đổi thêm.

Về sự hướng thượng và hướng thiện 

Sách Tam Tự Kinh mà các cụ học ngày xưa bắt đầu bằng câu “Nhân chi sơ, tính bản
thiện”. Con người được sinh ra có bản tính vốn là hiền lành. Liệu có đúng không nhỉ ?
Tin tức hàng ngày dễ làm cho người ta nghi ngờ cái “tính bản thiện” của “nhân chi sơ”. Đầu tháng Một ở Ấn độ, một cô gái 23 tuổi bị sáu người đàn ông hãm hiếp đến
chết trên một chiếc xe buýt. Cuối tháng Một, ở Bắc Ninh, người ta nô nức, chen lấn
nhau tham gia lễ hội chém lợn. Con lợn bị nhát đao xẻ làm hai mảnh lăn quay trong
vũng máu lênh láng và trong tiếng hò reo của những người trảy hội. Hai sự kiện này
không liên quan đến nhau, nhưng chúng cùng phản ánh sự độc ác của con người một
cách vô cùng rõ nét. Xét cho cùng, giết lợn cũng chỉ là việc giết động vật để ăn thịt, cái
mà con người buộc phải làm để duy trì cuộc sống của chính mình. Hãm hiếp cũng
nảy sinh từ một bản năng cơ bản của con người là bản năng duy trì nòi giống. Phải
chăng, con người được sinh ra với hai bản năng cơ bản duy trì cuộc sống và duy trì
nòi giống, cái mà ở trong đó đã có sẵn mầm mống của cái ác, của cái ác khủng khiếp.
Nếu chỉ dừng lại đây thì quả khó mà tin được vào cái “Nhân chi sơ tính bản thiện”.

Nếu con người được sinh ra chỉ có hai bản năng nói trên thì chắc rằng hai sự việc kể
trên sẽ không phải là những hiện tượng dị biệt, mà ngược lại, là phổ biến, đến mức
không làm chúng ta kinh ngạc hay xúc động nữa. Có thể tôi còn là một người lạc
quan, nhưng tôi tin rằng con người được sinh ra còn có một bản năng khác nữa: đó
là bản năng hướng thượng, hướng thiện. Nhìn vào một đứa trẻ sơ sinh, xinh xắn như
một thiên thần ta có thể nghĩ rằng đó là hiện thân của sự tốt đẹp. Nhưng cái kiểm
soát mọi hành động của đứa trẻ là chỉ đơn thuần bản năng sinh tồn của nó. Tôi nghĩ
rằng, trong đứa trẻ không có sẵn một tâm hồn cao thượng, nhưng đã có sẵn tiềm
năng để xây dựng nên từ đó cái tâm hồn ấy. Theo tôi cần hiểu “tính bản thiện” của
“nhân chi sơ” chỉ là chính là cái tiềm năng ấy.

Cái tiềm năng ấy được triển khai trong học tập và là động cơ chính cho việc học tập.
Có thể có người không đồng ý với quan điểm này và cho rằng học là để sau này có
một cuộc sống tử tế, để sau này có một vị trí tốt trong xã hội. Tôi cho rằng cách suy
nghĩ như vậy là phiến diện. Thứ nhất, để có một cuộc sống tử tế, đó cũng chính là
biểu hiện của sự hướng thượng, hướng thiện - tất nhiên một khi nó đã biến thái để
nhắm tới cái đích là hưởng thụ một cuộc sống an nhàn nhờ vào sức lao động của
người khác, thì cái động cơ hướng thượng hướng thiện đó đã bị tha hoá nghiêm
trọng. Thứ hai, tôi tin rằng đa số người ta thực ra không có khả năng phấn đấu vì
một cái gì xảy ra trong một tương lai quá xa, phần lớn người ta học chỉ vì đó là cách
hoàn thiện bản thân mình, tức là học với một động cơ hướng thượng thuần khiết
nhất. Vì vậy, nhiều khi quan niệm xã hội làm tha hoá một động cơ mà bản chất là
thuần khiết.

Cần lưu ý là quan niệm xã hội không phải là cái duy nhất làm cho sự hướng thượng
hướng thiện bị tha hoá. Tôn thờ cá nhân, có thể là lãnh tụ, danh thủ bóng đá, hay là
ca sĩ Hàn quốc, là một hình thức tha hoá của sự hướng thượng. Bản năng hướng
thượng, hướng thiện luôn phải vật lộn với hàng loạt bản năng xấu: tính lười biếng,
tính đố kỵ, tính gian dối, tính hiếu thắng, tự phụ. Nếu bị các yếu tố khác làm tha hóa,
thì cơ hội của nó làm động cơ cho học tập có lẽ sẽ không còn mấy.

Học như thế nào? Ngô Bảo Châu, 5/3/2013  
Học như thế nào? (phần 2) 
Học như thế nào? (phần cuối)



 

Thứ Tư, 13 tháng 11, 2013

HẠNH PHÚC GIỐNG NHƯ MỘT ĐÔI GIÀY

 Vì trong cuộc đời của mỗi người, ai cũng phải trải qua rất nhiều những đôi giày. Nhưng không phải ai cũng chọn cho mình một đôi giày vừa ý.

Cũng như mọi cô gái khác, tớ rất thích những đôi giày. Những đôi giày có thể không cần phải quá cầu kì...

Tớ thích cách so sánh giản dị như thế về hạnh phúc. Không phải những điều cao xa, viển vông và cần nhiều trí tưởng tượng. Hạnh phúc chỉ là thế, là một đôi giày - một loại vật dụng hết rất thân thuộc trong đời sống hằng ngày.


Cũng như mọi cô gái khác, tớ rất thích những đôi giày. Những đôi giày có thể không cần phải quá cầu kì, đính thật nhiều hạt cườm hay nơ. Chỉ cần là một đôi giày vừa chân, mềm mại, để cùng tớ đi khắp nơi.

Sinh nhật mười lăm của tớ được đánh dấu bằng một đôi giày búp bê mẹ tặng. Đôi giày màu be, đế thấp nhưng đi rất êm chân. Tớ có thể dùng nó đi học, đi chơi hoặc đi dự những buổi tụ tập quan trọng. Ở tuổi mười lăm, sở hữu một đôi giày dễ thương đồng nghĩa với hạnh phúc.

Tuyệt diệu hơn cả, là mẹ đã đính kèm với đôi giày đó một lời nhắn nhủ chân thành:

“Nếu cuộc sống là một chuyến đi dài thì mẹ chúc con hạnh phúc trên từng chặng đường đi với đôi giày mẹ tặng”.

Đến sinh nhật tuổi mười tám, bố đã thực sự khiến tớ bất ngờ với một đôi giày cao gót, màu đỏ mà bố “xách tay” về từ Singapore nhân chuyến công tác dài ngày. Bố chỉ giải thích giản dị: “Bố nghĩ đến hình ảnh con gái bố khi mặc chiếc váy ngắn mẹ tặng và đi đôi giày này. Hẳn sẽ rất nổi bật”. Tớ đã nhảy tưng tưng vì vui mừng và tự hào vì có một ông bố tâm lý.

Cho đến một ngày, mẹ bảo, hạnh phúc như một đôi giày, thì tớ đã hiểu tại sao, món quà đầu tiên mà bố mẹ nghĩ cho tớ bao giờ cũng là một đôi giày.

****
Sao hạnh phúc lại như một đôi giày hả mẹ?

Vì trong cuộc đời của mỗi người, ai cũng phải trải qua rất nhiều những đôi giày. Nhưng không phải ai cũng chọn cho mình một đôi giày vừa ý. Con biết không, để có một đôi giày mà đi vào thoải mái người ta phải chọn và thử rất nhiều lần.

Hạnh phúc cũng thế đấy con ạ, cũng phải qua một quá trình sàng lọc và thử thách.

Con nhớ không những lần con đi mua giày cùng mẹ. Con đã phải ướm chân vào khắp các đôi giày có size 35 trong cửa hàng đầu phố để rồi ra về tay không. Chọn một đôi giày còn khó khăn như thế, huống chi là hạnh phúc.

Đôi lúc, mẹ thấy các con phàn nàn rằng mình thật bất hạnh, thật kém may mắn và xui xẻo. Nói tóm lại là các con than vãn quá nhiều. Sao các con không nghĩ rằng với những gì bố mẹ đã làm cho các con thì như thế đã đủ để gọi là hạnh phúc? Chọn cho mình những niềm vui nhỏ bé, thiết thực, chọn cho mình một cách nghĩ lạc quan và niềm vui sống. Mẹ nghĩ, khi đó, con đã hạnh phúc rồi đấy con gái ạ.

Hạnh phúc của người này cũng không giống với người kia, như con đi đôi giày size 35 trong khi bạn con phải đi size 39 vậy. Có thể điều này với con là hạnh phúc còn với người khác thì không và ngược lại. Nhưng, con không thể đánh đổi niềm hạnh phúc của mình cho người khác. Vì, con không thể gọt chân mình đi cho vừa với một đôi giày nhỏ hơn, cũng không thể độn thêm nhiều thứ khác để vừa chân với một đôi giày quá rộng. Với hạnh phúc, con cũng phải biết chấ
p nhận. Biết đâu là hạnh phúc của mình và hài lòng với nó.
Con nhớ không, có một lần con đã mua một đôi giày có gót quá cao? Con đi thử và chênh vênh, suýt ngã. Đấy, hạnh phúc cũng là thế đấy con ạ. Không phải là một cái gì quá hiếm có, khó tìm và cao xa đâu. Hạnh phúc không phải là một đôi giày lênh khênh, mỗi lần con đi vào là một lần nhăn nhó. Hạnh phúc là đôi giày con vẫn đi, có thể nó chỉ cao 3 phân thôi, nhưng là đôi giày khiến con thấy mình đang đi trên đôi chân của chính mình và có thể ngẩng đầu tự tin khi đi trên phố dù là trong những ngày mưa lội. Nhưng hạnh phúc cũng đừng là những đôi giày quá đơn sơ, vì những đôi giày đơn sơ, là những đôi giày dễ tuột. Hạnh phúc bao giờ cũng phải khiến ta trân trọng và gìn giữ, chứ không thể là điều có thể dễ dàng để mất đi.
Còn một điều nữa con à, những đôi giày cũng sẽ thay đổi. Khi mới mua về, đôi giày sẽ cứng hơi khó đi. Theo thời gian, giày sẽ mềm ra và êm ái hơn với chân con. Hoặc ngược lại, chân con sẽ phải biến đổi để phù hợp với đôi giày. Con nhớ những vết chai ở gót chân con không? Là hậu quả của chuỗi ngày con đi giày quá chật đấy. Những vết chai hình thành sẽ khiến chân con mất đi cảm giác đau. Như thế, có nghĩa là, con người ta phải tự thay đổi mình để tìm được niềm hạnh phúc đích thực. Hoặc ngược lại, đến một lúc nào đó, quan niệm của con về hạnh phúc sẽ khác vì bản thân con cũng khác đi.
Con có để ý, những đôi giày da tốt thường hay phải đánh xi không, con gái? Vì nếu không đánh xi thì những đôi giày ấy sẽ xỉn màu, lớp da sẽ xấu đi, không còn giá trị như ban đầu nữa. Điều này có gợi cho con liên tưởng gì không? Hạnh phúc cũng cần được chăm sóc và nâng niu như một đôi giày tốt. Con có thể đôi giày ấy trên những con phố lầy lội, có thể mang nó trong một ngày mưa nhưng sau đó, đôi giày đó phải được lau khô, đánh xi sạch sẽ. Đừng bao giờ lơ là với hạnh phúc của chính mình, con nhé!
****

Đó là lời giải thích rất cặn kẽ của mẹ cho câu hỏi của tớ. Hạnh phúc với mẹ, với tớ đều chỉ giản đơn như là một đôi giày. Nhưng ai dám bảo là nó dễ dàng và không quan trọng, phải không bạn?

Những bài học rèn nhân cách của người Việt xưa

Tôi tự hào vì mình là người Việt với một truyền thống văn hóa, đạo lý tốt đẹp. Nhưng tôi thấy xấu hổ vì những tính xấu của người Việt. Bạn đừng tự ái vì những bài viết chê trách người Việt xấu tính vì liều “thuốc đắng” đó là sự thật.


Có lẽ xuất phát từ một xã hội thuần nông, kinh tế còn nghèo nàn nên cũng ảnh hưởng và tác động nhiều tới đời sống con người Việt Nam. Nhưng không vì thế mà ông bà ta xưa quên nếp sống văn hóa. Văn hóa và bản sắc Việt với những điều tốt đẹp được hun đúc và gìn giữ hàng ngàn năm. Trong bài viết này tôi chỉ xin nói về những quan niệm và cách sống, giao tiếp, ứng xử của người xưa để thấy những người “chân đất”, để thấy ông cha ta rèn luyện nhân cách và nếp sống như thế nào?

Cha ông ta có những quan điểm sống rất sâu sắc và chí tình:


- Đói cho sạch, rách cho thơm;
Giấy rách phải giữ lấy lề: Nghèo, đói nhưng phải lấy lễ nghĩa, đạo đức làm trọng. Nhưng bây giờ thói hư tật xấu không những bắt nguồn từ nghèo đói mà kể cả từ sự giàu có nữa. Ví như tính tham lam, thiếu ý thức của một bộ phận người Việt, mua bán gian lận, sinh hoạt bê tha, xả rác bừa bãi … đâu có kể giàu nghèo.
- Ăn trông nồi, ngồi trông hướng; Miếng ăn miếng nhục; Miếng ăn quá khẩu thành tàn…Các cụ dạy về văn hóa ăn uống rất sâu xa. “Ăn” là một bản năng nhưng cũng phải học, học hàng ngày. Ăn uống phải nhìn xung quanh, không chỉ biết có bản thân mình, phải biết giữ ý tứ, thể diện. Không thể để bị khinh, để mang nhục chỉ vì miếng ăn. Ra nước ngoài mới bộc lỗ rõ điều này.
- Học ăn, học nói, học gói, học mở: Từ việc ăn, cho đến việc nói và làm; đều phải học, không có gì tự nhiên mà đến. Đi nước ngoài lại càng phải học vì văn hóa, nếp sống, cách nghĩ khác nhau. Mà học thì không quá khó, chỉ cần mình có ý thức học hỏi và chịu khó quan sát thì mình có thể làm được như họ. Như ăn tiệc, như xếp hàng, như giao tiếp ứng xử với người nước ngoài, như giữ gìn trật tự, vệ sinh nơi công cộng…
- Uốn cây từ thuở cây non, dạy con từ thuở con còn thơ ngây: Đây là một bài học cho các bậc cha mẹ, nhà trường trong việc dạy dỗ con cái. Vậy để hình thành nếp sống văn hóa, thói quen tốt thì gia đình và nhà trường, xã hội phải dạy dỗ trẻ ngay khi còn nhỏ. Người lớn cũng thấy được sự ảnh hưởng của mình để làm gương cho trẻ em. Như vậy thì những thói hư tật xấu làm sao có đất để tồn tại?
- Tiên học lễ, hậu học văn: Đề cao lễ nghĩa, đạo đức của con người mà ta cần phải học trước khi học về kiến thức. Đây là cái gốc để hình thành nhân cách tốt của mỗi con người, và rộng ra của một xã hội văn minh. Đi một đàng học một sàng khôn: Càng được đi ra ngoài xã hội, ra thế giới càng có cơ hội để học tập, học những điều tốt, điều hay; để từ bỏ những thói hư, tật xấu như các bạn đã nói.
- Trên kính, dưới nhường; tôn sư trọng đạo: Đó là bài học về ứng xử với những người xung quanh, đó là một trật tự xã hội mà con người phải tuân thủ. Nó thật khác biệt với những gì diễn ra mà chúng ta thấy như cảnh cha con, anh em, thầy trò cãi cọ chửi bới, đối xử tệ bạc, thậm chí đâm chém lẫn nhau bất chấp đạo lý; cảnh chen lấn xô đẩy nơi công cộng bất chấp luật lệ… Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm: Dạy con cháu ý thức vệ sinh, gọn gàng ngăn nắp, hình thành thói quen tốt sẽ có tác động tốt đến đời sống của gia đình (rộng ra là xã hội).

Còn rất nhiều quan niệm, cách răn dạy của ông bà ta đối với con cháu để mong muốn con cháu mình được học tập và áp dụng trong cuộc sống để cuộc sống đẹp hơn, tốt hơn. Như các câu: Lá lành đùm lá rách; Kim vàng ai nỡ uốn câu, người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời; Cá không ăn muối cá ươn, con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư; Không thầy đố mày làm nên; Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng…

Các cụ xưa tuy nghèo thật nhưng luôn có lòng tự trọng: Đói cho sạch, rách cho thơm. Những quan niệm sống xưa cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Thiết nghĩ, văn hóa không phân biệt giàu nghèo. Thực tế cuộc sống đã chứng minh người giàu không có nghĩa là có văn hóa và ai bảo người nghèo thì không có văn hóa? Giữa người nghèo, hoặc ít tri thức xấu tính và người giàu hoặc trí thức đầy mình xấu tính thì ai đáng chê cười hơn? Nhiều ý kiến cho rằng trước đây người Việt ra nước ngoài không bị coi thường như bây giờ, vậy nguyên nhân do đâu?

Tôi tự hào vì mình là người Việt với một truyền thống văn hóa, đạo lý tốt đẹp. Nhưng tôi thấy xấu hổ vì những tính xấu của người Việt. Bạn đừng tự ái vì những bài viết chê trách người Việt xấu tính vì liều “thuốc đắng” đó là sự thật. “Thuốc đắng dã tật sự thật mất lòng”, thà rằng “mất lòng trước nhưng được lòng sau”, người xưa nói thế quả không sai đâu.

Việt Nam ta còn nghèo, về kinh tế còn phải phấn đấu nhiều. Nhưng văn hóa, văn minh thì không thể không học tập. Xã hội ta vẫn nhiều những con người, những hành vi, nghĩa cử đẹp; vẫn nhiều những cái hay cái đẹp. Biết hay để học biết nhục để sửa, vậy nên ta phải học, học người xưa, người nay, học thế giới xung quanh thì mới ngẩng cao đầu được.

 http://www.chungta.com/tulieu/tu-lieu-tra-cuu/nhung_bai_hoc_ren_nhan_cach_nguoi_viet_xua/default.aspx

Thứ Sáu, 8 tháng 11, 2013

5 lý do người Do Thái giành nhiều giải Nobel nhất

Mặc dù chỉ chiếm 0,2% dân số toàn cầu, nhưng người Do Thái lại giành được 22% số giải Nobel.

Mùa Nobel năm nay chưa kết thúc, nhưng đã có tới 6 người gốc Do Thái nhận được giải thưởng cao quý này, bao gồm: 3 nhà khoa học giảnh giải Nobel hóa học: Arieh Warshel, Michael Levitt và Martin Karplus; Francois Englert giật giải Nobel vật lý và 2 nhà khoa học James E. Rothman, Randy W. Schekman được vinh danh ở giải Nobel y học, cùng với một người khác.


5 lý do người Do Thái giành nhiều giải Nobel nhất
Ông Arieh Warshel (giữa), một trong ba nhà khoa học đoạt giải Nobel Hóa học 2013 tại cuộc họp báo ở Cambridge, bang Massachusetts, Mỹ ngày 9/10. (Ảnh: AFP/TTXVN)
Có 5 lý do giải thích cho xu hướng trên:
1. Hội chứng chàng David tí hon và gã khổng lồ Goliath: Dưới góc độ là một dân tộc thường xuyên bị đàn áp, người Do Thái luôn phải cố gắng nỗ lực vươn lên. Rõ ràng, quy mô dân số không cho phép người Do Thái trở thành chủng tộc hàng đầu thế giới. Vì thế, vượt lên dẫn đầu được xem là cách riêng để họ khẳng định vị thế.
2. Nguồn gốc xã hội: Người Do Thái chắc ai cũng phải nghe đi nghe lại hàng trăm lần câu chuyện vui về việc các bà mẹ ai cũng mong muốn con mình sau này sẽ trở thành bác sĩ hoặc luật sư, hoặc ít nhất là lấy được một người làm hai nghề trên. Thực ra, điều này phản ánh sự kì vọng nhiều khi biến thành áp lực đối với con cái buộc phải học đại học. Trong một hệ thống giáo dục mang tính yêu cầu cao, định hình trước như vậy sẽ càng có nhiều người đi vào lĩnh vực y khoa và luật, rồi họ sẽ thành công.
3. Tôn giáo là tri thức: Nhìn toàn cục, đạo Do Thái coi trọng học vấn và phân tích, dù không xem đây là một học thuyết bắt buộc phải nằm lòng. Luồng tư tưởng “2 người Do thái – 3 ý kiến” đã ăn sâu vào văn hóa của tộc người này. Người Do Thái không chấp nhận giá trị hời hợt, bề ngoài, mà luôn đi sâu tìm hiểu các câu hỏi “vì sao”, “như thế nào” trong mọi tình huống đời thường. Họ đánh giá cao sự phân tích, còn các tôn giáo khác thì lại coi trọng tín điều.
4. Cơ chế tồn tại: Sau sự phá hủy của Đền thờ thứ hai (the Second Temple) – một trung tâm tín ngưỡng và tôn giáo của người Do Thái trên Núi Ôliu, chủng người này nhận thức rõ họ cần phải hay chữ để tiếp tục tầm sưu và luyện đạo. Chính sự hay chữ này đã giúp đạo Do Thái tồn tại, đưa tộc người này không bị đồng hóa bởi các nền văn minh xung quanh. Đó chính là một ưu thế nổi trội của người Do Thái kể từ thời Trung cổ.
5. Người Do Thái - người ngoài cuộc: Chính vì những lối suy diễn này mà người Do Thái đã học được cách cẩn trọng, đến mức không tin tưởng vào người khác. Những đánh giá thâm căn cố đế cho rằng người Do Thái sinh ra là để phục vụ thế giới đã tạo điều kiện cho họ có cái nhìn qua lăng kính rất riêng. Nếu như người nào đó luôn bận tâm với câu hỏi truy đến cùng “sự thực” họ sẽ lao vào nghiên cứu, phân tích và cuối cùng sẽ được đền đáp bằng những khám phá bất ngờ.

“10 điều giới trẻ hay lãng phí” gây sốt mạng

Với việc chỉ ra những điều phần lớn bạn trẻ hiện nay không chú ý đến ở chính bản thân mình, chùm ảnh “10 điều giới trẻ hay lãng phí” khiến không ít người thảng thốt nghĩ về quãng thời gian tươi đẹp đang trôi đi vô ích.

Không quá phức tạp hay sử dụng những hiệu ứng cầu kỳ, mới đây, chùm ảnh có tên “10 điều giới trẻ hay lãng phí” đăng tải trên trang mạng và diễn đàn nhanh chóng thu hút sự chú ý, quan tâm của nhiều bạn trẻ.

Đúng với tên gọi, chùm ảnh chỉ ra những vấn đề mà phần lớn bạn trẻ hiện giờ vì những lý do khác nhau đã quên mất ở chính bản thân mình như sức khỏe, thời gian, tiền bạc, đọc sách, nhan sắc, du lịch…

Cùng với đó, mỗi bức ảnh còn là lời khuyên hữu ích đối với từng người. Ví dụ “Không đọc sách: Không có sách, lịch sử câm lặng, văn chương câm điếc, khoa học tê liệt, tư tưởng và suy xét ứ đọng. Từ sách bạn có thể khám phá biết bao điều kỳ thú trên khắp thế giới. Thật phí nửa cuộc đời cho những ai chưa bao giờ biết đọc sách là gì”.

Hay: “Sức khỏe: Lúc còn trẻ, người ta thường ỷ lại và sức sống tràn trề đang có. Họ làm việc như điên, vui chơi thâu đêm, ăn uống không điều độ,… Cứ như thế, cơ thể mệt mỏi và lão hóa nhanh. Khi về già, cô níu kéo sức khỏe thì đã muộn”…
 
“10 điều giới trẻ hay lãng phí” gây sốt mạng

Dường như khi theo dõi chùm ảnh này, hầu hết bạn trẻ đều cảm thấy mình mình ít nhất đã lãng phí một điều gì đó trong số 10 điều này và không ít người thảng thốt nghĩ về quãng thời gian tươi đẹp đang trôi đi vô ích.

Một bạn có nickname trungng…đồng cảm: “Lượng thông tin dồn dập, những mối quan hệ chằng chịt trên mạng xã hội khiến nhiều người tưởng chừng bận rộn hóa  ra lại biến mình trở nên thụ động, để thời gian trôi đi một cách vô ích. Và khi ngoảnh lại, chợt thấy mình tụt hậu, lẻ loi giữa cuộc sống”.

Hoaphong…, một cư dân mạng khác cũng phải thốt lên: “Cám ơn tác giả đã cảnh tỉnh. Đây đúng là những vấn đề bạn trẻ đang thờ ơ và có thể trả giá vì sự lãng phí đó. Mọi người có thể ngẫm lại mình để tự chấn chỉnh trước khi sự lãng phí trở thành hậu quả”.
 
Vũ Phong

Vũ Phong
 
Vũ Phong
 
Vũ Phong

Vũ Phong

Vũ Phong

Vũ Phong
 
Vũ Phong
Vũ Phong